cây nhội còn có tên thu phong, trọng dương mộc, cây quả cơm nguội... Tên khoa học Bischofia trifoliata (Rixb) Hook. f. hoặc Bischofia javanica Blume.
Họ Euphorbiaceae. Cây mọc hoang trong rừng và được đưa về thành phố lấy bóng mát. Ngọn, lá non thái nhỏ, rửa kỹ xào hay nấu canh; một số nơi dùng lá non ăn gỏi cá. Trước đây, cây ít được sử dụng làm thuốc. Hiện nay được quan tâm nhiều.
Trong lá non có nước, protid, glucid, chất xơ, caroten, vitamin C; các triterpenoid: friedelin, friedelinol, epifriedelinol...; các flavonoid: quercetin, quercitrin fisetin và các dẫn chất; các steroid: stigmasterol, ß-sitosterol, ß-sitostenon. Trong vỏ thân chứa tanin, hạt chứa dầu thô. Theo Đông y, cây nhội vị hơi cay, chát, tính mát; tác dụng hành khí, hoạt huyết, tiêu thũng, giải độc.
ại Trung Quốc, dùng vỏ thân, rễ cây trị phong thấp, đau xương; nghiên cứu lá cây chữa bệnh ung thư đường tiêu hóa, ung thư dạ dày, chữa viêm gan truyền nhiễm, viêm phổi, viêm hầu họng, trẻ em cam tích. Dùng ngoài trị mụn nhọt và lở ngứa... Ở Ấn Độ, người ta dùng dịch ép lá làm thuốc trị loét. Năm 1963, Bộ môn Ký sinh trùng, Đại học Y Dược Hà Nội phát hiện thấy lá nhội có tác dụng rất mạnh với trùng roi (Trichomonas), áp dụng chữa cho phụ nữ bị khí hư do trùng roi âm đạo (Trichomonas vaginalis), tiêu chảy do trùng roi (Trichomonas), kết quả tốt. Vì vậy, cây này có giá trị trong chăm sóc sức khỏe ban đầu cho phụ nữ, đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, nơi cây thuốc mọc nhiều. Ngoài ưu điểm diệt ký sinh trùng nhanh, không gây cương tụ, không làm rát âm đạo và tỷ lệ khỏi bệnh tương đối cao (72%), cao lá có ưu điểm hơn carbazol là sau khi khỏi nhiễm trùng roi, bệnh nhân không bị nhiễm nấm âm đạo (Mycose vaginale).